1. Căn cứ pháp lý
Điều 586 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định:
“Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường”
Điều 597 Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định:
“Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật.”
Điều 129 Bộ Luật Lao động năm 2019 quy định:
“1. Người lao động làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của người sử dụng lao động thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật hoặc nội quy lao động của người sử dụng lao động.
Trường hợp người lao động gây thiệt hại không nghiêm trọng do sơ suất với giá trị không quá 10 tháng lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố được áp dụng tại nơi người lao động làm việc thì người lao động phải bồi thường nhiều nhất là 03 tháng tiền lương và bị khấu trừ hằng tháng vào lương theo quy định tại khoản 3 Điều 102 của Bộ luật này.
2. Người lao động làm mất dụng cụ, thiết bị, tài sản của người sử dụng lao động hoặc tài sản khác do người sử dụng lao động giao hoặc tiêu hao vật tư quá định mức cho phép thì phải bồi thường thiệt hại một phần hoặc toàn bộ theo thời giá thị trường hoặc nội quy lao động; trường hợp có hợp đồng trách nhiệm thì phải bồi thường theo hợp đồng trách nhiệm; trường hợp do thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, dịch bệnh nguy hiểm, thảm họa, sự kiện xảy ra khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép thì không phải bồi thường.”
2. Đánh giá cơ chế bồi thường khi người lao động gây thiệt hại cho bên thứ 3
Như vậy, theo quy định của pháp luật khi người người lao động (NLĐ) gây thiệt hại cho bên thứ 3 thì người sử dụng lao động (NSDLĐ) phải có trách nhiệm bồi thường cho bên thứ 3. Tuy nhiên phải xét đến hai trường hợp:
Trường hợp 1
NLĐ gây ra thiệt hại nhưng nguyên nhân gây ra thiệt hại không liên quan đến NSDLĐ, không liên quan hoặc không đang thực hiện nhiệm vụ được NSDLĐ giao thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ áp dụng theo quy định tại Điều 586 Luật Dân sự 2015, NLĐ phải tự bồi thường thiệt hại cho bên thứ 3.
Trường hợp 2
NSDLĐ bồi thường khi NLĐ gây thiệt hại cho bên thứ 3 theo điều 597 Bộ Luật Dân sự 2015, tuy nhiên NSDLĐ bồi thường hay không cũng phải xét đến các yếu tố sau:
(i) Doanh nghiệp phải là pháp nhân (ví dụ doanh nghiệp tư nhân không phải là pháp nhân)
(ii) Người lao động của doanh nghiệp gây ra thiệt hại khi thực hiện nhiệm vụ trong thời giờ làm việc được NSDLĐ giao trong phạm vi trong hợp đồng lao động (căn cứ hợp đồng lao động)
Bên NSDLĐ có thể yêu cầu người lao động trong trường hợp có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả khoản tiền theo như hợp đồng lao động hoặc nội quy lao động.